Lịch sử S-75 Dvina

Giai đoạn thiết kế và chế tạo

Đầu thập niên 1950, Không quân Hoa Kỳ đẩy mạnh chương trình phát triển máy bay ném bom tầm xa mang theo vũ khí hạt nhân. Chương trình này dẫn đến việc phát triển máy bay Boeing B-47 Stratojet được hỗ trợ bởi máy bay tiếp nhiên liệu trên không để nâng tầm bay tới Liên Xô. Tiếp theo, một chương trình khác đã phát triển pháo đài bay B-52 với tầm hoạt động xa hơn và mang nhiều bom hơn B-47. Tầm hoạt động, tốc độ và khả năng mang bom của những máy bay ném bom này là một đe dọa lớn đối với Liên Xô trong trường hợp xảy ra chiến tranh giữa hai nước. Kết quả là Liên Xô bắt đầu phát triển hệ thống phòng thủ trên không. Mặc dù Liên Xô đã có tương đối nhiều pháo phòng không, kể cả pháo phòng không cỡ lớn dẫn hướng bằng radar (cỡ 100mm và 130mm), nhưng giới hạn của pháo so với máy bay ném bom tầm cao là hiển nhiên. Vì thế, Liên Xô bắt đầu xây dựng hệ thống tên lửa để thay thế hệ thống phòng thủ bằng pháo từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai.

Năm 1953, Lavochkin OKB bắt đầu phát triển hệ thống mà sau này trở thành S-75 dưới sự chỉ đạo của Petr Grushin. Chương trình này tập trung vào xây dựng tên lửa để có thể bắn hạ máy bay ném bom cỡ lớn bay ở tầm cao và không có khả năng thực hiện các động tác tránh như máy bay tiêm kích. Vì vậy, tên lửa không cần phải có khả năng đổi hướng liên tục, chỉ cần đơn giản là nhanh và tránh được các biện pháp chống tên lửa của máy bay. Đối với hệ thống như vậy, nghiên cứu phát triển diễn ra nhanh chóng và thử nghiệm được tiến hành vài năm sau. Năm 1957, lần đầu tiên, công chúng biết được sự hiện diện của S-75 khi tên lửa này được trình diễn trong lễ duyệt binh nhân ngày Quốc tế lao độngMoskva.

Triển khai trang bị

S-75 được triển khai với quy mô rộng bắt đầu từ năm 1957 và sau đó nhiều lần được nâng cấp. S-75 mặc dù không thay thế các phòng thủ tên lửa S-25 Berkut ở khu vực xung quanh Moskva nhưng đã thay thế pháo phòng không hạng nặng như pháo 130 mm KS-30 và pháo 100 mm KS-19. Giữa năm 1958 và 1964, tình báo Hoa Kỳ đã xác định tới hơn 600 trận địa S-75 được triển khai trên toàn lãnh thổ Liên Xô. Các điểm này thường gắn liền với các trung tâm đông dân, khu công nghiệp và trung tâm chính phủ. Một số điểm cũng được triển khai trên các tuyến mà máy bay ném bom có thể bay để tới được trung tâm Liên Xô. Tới giữa thập kỷ 1960, Liên Xô đã kết thúc quá trình triển khai với khoảng 1.000 trận địa.

Ngoài Liên Xô, nhiều tên lửa S-75 cũng được triển khai trong thập niên 1960 ở Đông Đức để bảo vệ lực lượng Xô Viết ở nước này. Sau đó, tên lửa được bán hoặc viện trợ cho hầu hết các nước theo Hiệp ước Warszawa và sau đó là Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Cuba, Ai Cập, Syria và cuối cùng là Việt Nam.

Từ năm 1968, dựa trên phiên bản S-75A, Trung Quốc cũng tự chế tạo loại vũ khí này và đặt tên là HQ-1 (Hongqi-1) và HQ-2 (Hongqi-2). Mặc dù có một số cải tiến ở khoang chiến đấu của kíp điều khiển và hệ thống dẫn đường nhưng các loại tên lửa này nhanh chóng lạc hậu khi không thể đối phó được với máy bay cường kích hoạt động ở độ cao thấp và các máy gây nhiễu hiện đại trong chiến tranh điện tử và tên lửa chống ra đa[2]. Một số quốc gia khác cũng chế tạo nhiều phiên bản S-75 khác nhau thông qua việc phát triển các thành phần cấu tạo và kết hợp S-75 với các hệ thống khác. Vì vậy, ngày nay khó có thể tìm thấy một hệ thống S-75 nguyên bản như ban đầu.

Trong Chiến tranh Lạnh

Tên lửa S-75 trong tư thế hành quân tại một cuộc duyệt binh ở Berlin-CHDC Đức trước năm 1989

Ngày 1 tháng 5 năm 1960, S-75 được sử dụng trong tác chiến lần đầu tiên tại Liên Xô. Tại cuộc tấn công một chuyến bay do thám vào vùng trời tỉnh Sverdlovsk của Liên Xô, các đơn vị tên lửa S-75 do các đại úy tiểu đoàn trưởng Boris Mojayev và Ivan Ylinysh chỉ huy đã bắn rơi một chiếc Lockheed U-2 của Không lực Hoa Kỳ trên độ cao 20 km. Viên phi công Hoa Kỳ Francis Gary Powers buộc phải nhảy dù và bị bắt.[3]

Năm 1958, hệ thống S-75 được Liên Xô viện trợ cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để bảo vệ vùng trời Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Nam Kinh, Quảng Châu và một số yếu địa khác. Ngày 7 tháng 10 năm 1961, đơn vị tên lửa S-75 của Trung Quốc đóng tại Hạ Môn đã bắn rơi một máy bay trinh sát RB-57 của Không quân Đài Loan. Đây là chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới bị tên lửa phòng không bắn hạ. Trong năm tiếp theo, Đài Loan tiếp tục mất thêm hai chiếc RB-57 đều do S-75 bắn rơi tại Trung Quốc. Sau vụ này, Đài Loan phải cắt giảm rồi chấm dứt hẳn các chuyến bay trinh sát của RB-57 vào vùng trời Trung Quốc. năm 1962, Không quân Đài Loan được Mỹ chuyển giao U-2 để do thám Trung Quốc và chiếc U-2 đầu tiên của Đài Loan bị Trung Quốc bắn rơi ngày 9/9/1962. Có ít nhất 11 chiếc U-2 của Đài Loan bị bắn hạ trong giai đoạn từ năm 1962 đến 1970, đa số đều bị SAM-2 bắn rơi.

Tháng 10 năm 1962, trong cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba, các đơn vị tên lửa S-75 do chuyên gia Liên Xô điều khiển, bằng 3 quả tên lửa đã bắn rơi một máy bay U-2 của Hoa Kỳ do viên phi công Rudolf Anderson điều khiển trên vùng trời tỉnh Santiago de Cuba, viên phi công Mỹ thiệt mạng.

Năm 1965, hệ thống S-75 cũng được Liên Xô viện trợ cho Ai CậpSyria để chống lại không quân Israel. Trong cuộc chiến tranh 6 ngày (5 đến 11 tháng 6 năm 1967) giữa Liên quân Ai Cập - Syria với Israel, quân đội Ai Cập không chịu nổi đòn tấn công của các binh đoàn thiết giáp Israel đã tháo chạy khỏi sa mạc Sinai, bỏ lại hơn 20 bộ khí tài S-75A, cùng loại với khí tài mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang sử dụng chống lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của Hoa Kỳ (1965-1968). Các bộ khí tài này đều được các chuyên gia vũ khí Mỹ nghiên cứu để áp dụng các vũ khí điện tử đối phó. Điều này đã gây ra một số khó khăn cho tên lửa S-75 tại Việt Nam.[4]

Tại chiến tranh Việt Nam

Một chiếc F-4 của Không quân Hoa Kỳ bị trúng tên lửa S-75 khi đang không kích miền Bắc Việt Nam

Ngày 27 tháng 3 năm 1965, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký hiệp nghị viện trợ quân sự; trong đó, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 4,5 cơ số tên lửa S-75 (54 quả) cùng toàn bộ khí tài, trang bị kỹ thuật kèm theo để thành lập 2 trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sĩ quan Việt Nam được gửi đến Liên Xô để học về hệ thống tên lửa phòng không S-75 và 10 trung tâm huấn luyện của Lực lượng Phòng không Quốc gia (PVO-Strany) được xây dựng ở miền Bắc Việt Nam, trở thành nòng cốt của các trung đoàn tên lửa phòng không mới.

Trong Chiến tranh Việt Nam, tên lửa S-75 là một trong những vũ khí phòng không chủ lực để bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và một số yếu địa khác. Ngày 24 tháng 7 năm 1965, các Tiểu đoàn tên lửa 63 và 64 của Trung đoàn tên lửa 236 (Đoàn Sông Đà) trong trận đầu xuất quân có sự tham gia của các tổ chuyên gia Liên Xô do các thiếu tá Boris Mojayev và Ivan Ylinysh hướng dẫn điều khiển, với 3 tên lửa đã bắn rơi tại chỗ một chiếc F-4C của Không lực Hoa Kỳ trên vùng trời Hà Tây - Hòa Bình.[5] Các mảnh văng từ hai quả tên lửa cũng làm hư hại 3 chiếc máy bay F-4 khác.

Hai ngày sau sự kiện, Tổng thống Mỹ ra lệnh ném bom tiêu diệt các hệ thống S-75 vừa bắn hạ máy bay Mỹ. 48 chiếc cường kích F-105 được huy động trong chiến dịch Spring High, mang theo bom để phá hủy các mục tiêu do máy bay trinh sát Mỹ đánh dấu. Nhưng Không quân Mỹ đã rơi vào cái bẫy do Việt Nam giăng ra. Cả hai trận địa S-75 mà máy bay Mỹ nhắm vào đều là giả, tất cả những bệ phóng đều chỉ là mô hình làm bằng tre được sơn trắng để đánh lừa máy bay trinh sát Mỹ. Xung quanh trận địa, Việt Nam bố trí hàng loạt pháo cao xạ 23mm và 37mm để đóng lõng máy bay Mỹ. Các máy bay Mỹ được lệnh bay thấp để tránh radar, nhưng chiến thuật này lại khiến máy bay Mỹ trở thành mục tiêu dễ bị bắn trúng bởi pháo cao xạ. Kết quả là không quân Mỹ chỉ phá hủy được 2 mục tiêu giả, trong khi bị tổn thất 6 máy bay bị bắn rơi, nhiều máy bay khác bị hư hại, 5 phi công tử trận hoặc bị bắt[6].

Trong tháng đầu tiên sử dụng S-75, theo ước tính của Việt Nam, 14 máy bay Mỹ bị hạ, với tổng cộng 18 tên lửa phóng đi. Còn theo số liệu của Mỹ, trong cùng kỳ, tên lửa phòng không Việt Nam bắn hạ 3 máy bay - ngoài chiếc F-4C được đề cập ở trên, đêm 11/8 hạ một chiếc A-4E, và ngày 24/8 thêm một chiếc F-4B. Nguồn Hoa Kỳ không nói rõ có bao nhiêu máy bay bị hư hại.

Để đáp trả, Không quân Mỹ đã mở Chiến dịch Iron Hand (Bàn tay Sắt) để áp chế các hệ thống phòng không S-75 của Việt Nam. Nhận thấy được vùng chết của radar RSNA-75 Fan Song A là không bắt được mục tiêu ở độ cao thấp, cuộc tấn công đầu tiên của chiến dịch Iron Hand diễn ra vào ngày 27/7/1965, với phi đội 54 chiếc tiêm kích bom F-105 Thunderchief bay ở độ cao thấp tấn công vào các trung đoàn S-75. Tuy nhiên, Việt Nam đã lường trước được điều này nên đã di chuyển các tiểu đoàn chiến đấu đến nơi khác, thay thế các vị trí cũ bằng các hệ thống phòng không giả và triển khai hơn 120 pháo phòng không xung quanh khu vực ấy. Khi phi đội F-105 đến, chúng đã bị pháo phòng không đón đánh, 6 chiếc F-105 bị bắn hạ cùng với 1 chiếc máy bay trinh sát RF-101 Voodoo.

Một chiếc cường kích F-105D của Không quân Mỹ bị tên lửa S-75 bắn trúng trên bầu trời miền bắc Việt Nam

Sau khi 1 chiếc A-4 Skyhawk bị tên lửa phòng không S-75 bắn rơi vào ngày 11/8/1965, một cuộc tấn công tương tự của Hải quân Mỹ với chiến thuật bay thấp được thực hiện, và Hải quân Mỹ đã mất 5 chiếc máy bay mà không một trận địa tên lửa phòng không nào bị hạ. Quân đội Mỹ đã thử một số cách khác như chiến dịch Left Hook, họ đã phóng máy bay không người lái BQM-34 Firebee để thu thập tín hiệu sóng của radar RSNA-75 Fan Song A nhưng không thành công. Từ ngày 12/8 đến ngày 14/11/1965, hơn 338 phi vụ của chiến dịch Iron Hand được thực hiện như không thu được kết quả nào do sự cơ động, khả năng nguỵ trang xuất sắc của các tiểu đoàn S-75 Việt Nam với sự bảo vệ bởi các tiểu đội pháo phòng không dày đặc.

Sau tổn thất nặng nề đầu tiên, tháng 2/1966, trên thực tế Mỹ phải ngừng gần 2 tháng hoạt động không kích miền Bắc, tận dụng thời gian để trang bị thêm cho máy bay các hệ thống tác chiến điện tử và phát triển chiến thuật mới.

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, để chủ động gây cho địch bất ngờ, Bộ Tư lệnh tên lửa đã đề nghị Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân cho phép thực hiện chiến thuật "cơ động phục kích" trong việc sử dụng tên lửa phòng không S-75 để đánh địch. Theo giáo trình của Liên Xô, tên lửa S-75 sẽ bố trí ở các trận địa cố định, tạo thành thế liên hoàn gồm hàng chục hệ thống tên lửa yểm trợ cho nhau, sẵn sàng đối đầu với đợt tấn công của cả trăm máy bay địch (nếu thường xuyên di chuyển sẽ làm cho các khối vi điện tử hoạt động thiếu chính xác). Tuy nhiên, trong điều kiện ở Việt Nam, cách bố trí này có nhiều khuyết điểm (Việt Nam không có nhiều hệ thống S-75 như Liên Xô để bố trí liên hoàn, còn nếu bố trí 1 hệ thống tên lửa đơn lẻ ở vị trí cố định thì dù có bắn rơi được một vài máy bay của địch, hệ thống đó vẫn sẽ bị hàng chục máy bay Mỹ khác dùng số lượng áp đảo đánh hủy diệt). Vì thế, các hệ thống S-75 của Việt Nam thường không bố trí cố định như giáo trình của Liên Xô mà được phân tán, liên tục di chuyển và ngụy trang cẩn thận, dùng chiến thuật "bắn rồi rút" để máy bay Mỹ không lần ra được vị trí.

Các cố vấn quân sự Liên Xô tại một căn cứ huấn luyện cho Bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam sử dụng S-75 trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ (1965-1972)

Trong quá trình di chuyển, để khắc phục tình trạng "xộc xệch" của bộ khí tài, nhất là Cabin điều khiển và dàn ăngten tìm kiếm, các xạ thủ Việt Nam đã huy động nông dân đem rơm, rạ và các bó cỏ để đệm dưới các đoạn đường xấu, khi đưa các bộ khí tài này vào trận địa. Không quân Mỹ khi phát hiện ra trận địa tên lửa sẽ nhanh chóng tập trung lực lượng với số lượng đông gấp bội để tiêu diệt. Vì vậy, chiến thuật cơ động phục kích đã đem lại hiệu quả cao, đã vô hiệu hóa phần lớn các số liệu trinh sát đường không của Mỹ, tạo ra thế bất ngờ, làm cho không quân của Mỹ không thể chống đỡ hiệu quả. Đoàn chuyên gia Liên Xô ở Trung tâm Huấn luyện đánh giá đây là một chiến thuật độc đáo của bộ đội tên lửa Việt Nam. Từ kinh nghiệm của Việt Nam, cuốn sách "Kinh nghiệm tác chiến của binh chủng tên lửa phòng không ở Việt Nam" đã được ấn hành. Đây là tài liệu mật và được phổ biến đến từng Tiểu đoàn để làm giáo trình huấn luyện cho bộ đội tên lửa phòng không Liên Xô.[7]

Trong cả năm 1966, Bộ đội phòng không Việt Nam thành lập mới 4 trung đoàn tên lửa phòng không. Theo các nguồn số liệu Liên Xô, đến tháng 3/1967, các đơn vị tên lửa phòng không Việt Nam đã tiến hành 445 lần phóng tác chiến, phóng đi 777 quả đạn tên lửa. Tổng cộng trong các lần phóng đó đã bắn rơi 223 máy bay, tính trung bình 3,48 quả đạn tên lửa/một máy bay Mỹ. Nguy cơ từ tên lửa buộc phi công Mỹ phải chuyển sang bay thấp, ở độ cao này tuy mối đe dọa từ tên lửa phòng không ít hơn nhưng nguy cơ bị pháo phòng không bắn hạ lại tăng lên nhiều. Theo các nguồn số liệu của Liên Xô thì đến tháng 3/1968, các đơn vị pháo phòng không Việt Nam đã bắn hạ 1.532 máy bay các loại của Mỹ.[8].

Để phản công, Mỹ bắt đầu chế tạo các máy bay chuyên dụng để không kích các tổ hợp tên lửa phòng không và các radar quan sát. Trong năm 1965, 6 chiếc F-100F Super Sabre hai chỗ đầu tiên đã được cải hoán thành phiên bản Wild Weasel (Chồn hoang), gồm các thiết bị AN/APR-25 phát hiện và định hướng nguồn phát sóng radar. Các máy bay F-100F thuộc biến thể này có nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu do chính nó phát hiện bằng rocket 70mm lắp trong 2 khối LAU-3 treo dưới cánh với 14 quả rocket, hoặc "đánh dấu" mục tiêu bằng cách phóng rocket, tiếp theo đó sẽ là các tốp máy bay ném bom Mỹ sẽ lao tới công kích để hủy diệt mục tiêu. Tiếp sau đó, năm 1966, Wild Weasel II (Chồn hoang II) cải hoán từ máy bay F-105 Thunderchief được đưa vào tham chiến, nó mang theo tên lửa chống radar AGM-45 Shrike, đây là kiểu tên lửa mới được giới tướng lĩnh Mỹ đặt rất nhiều kỳ vọng. Wild Weasel II còn được trang bị đài phát nhiễu chủ động và những thiết bị trinh sát vô tuyến kỹ thuật rất hiện đại. Trong nhiều trường hợp, đã có những cuộc "đấu súng" giữa các khẩu đội tên lửa S-75 và phi công "Chồn hoang" của Mỹ. Để đối phó với các thợ săn radar của Không quân Mỹ, bộ đội phòng không Việt Nam đã làm thêm các trận địa giả và trận địa dự bị, sử dụng pháo phòng không để bảo vệ các trận địa tên lửa. Để loại trừ khả năng làm lộ vị trí bố trí các tiểu đoàn tên lửa phòng không, các đơn vị cấm không được bật máy các radar dẫn đường, radar quan sát, máy đo xa và các đài liên lạc vô tuyến khi chưa tác chiến.

Trong Chiến tranh Việt Nam, các đài radar điều khiển - dẫn bắn SNR-75 được ngụy trang rất kỹ lưỡng nên đã giảm bớt nhiều thiệt hại trong các trận oanh tạc của không quân Mỹ

Ngày 13/2/1966, một máy bay trinh sát không người lái AQM-34Q Firebee được trang bị các thiết bị trinh sát vô tuyến kỹ thuật tối tân đã thu thập được các thông tin về hoạt động của hệ thống dẫn đường tên lửa và cơ chế làm việc của ngòi nổ vô tuyến trên tên lửa SAM-2. Ngoài ra, trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày (5 đến 11 tháng 6 năm 1967), Israel đã thu giữ hơn 20 bộ khí tài SAM-2 của quân đội Ai Cập, không quân Mỹ đã lập tức nghiên cứu các bộ khí tài này để áp dụng các vũ khí điện tử và chiến thuật đối phó, khiến hiệu quả sử dụng tên lửa của Việt Nam giảm đột ngột. Đến cuối năm 1967, máy bay Mỹ bắt đầu phát nhiễu phá sóng các kênh tên lửa, hiệu suất tác chiến của S-75M giảm mạnh, để tiêu diệt một mục tiêu cần phải sử dụng tới 10-12 quả đạn tên lửa. Trong trận không kích Hà Nội ngày 15/12/1967, Không quân Mỹ đã sử dụng phương pháp gây nhiễu rãnh đạn tên lửa, làm toàn bộ gần 90 quả đạn tên lửa SAM-2 bay trượt mục tiêu mà không mất một máy bay nào. Nhưng không lâu sau đó, bộ đội tên lửa Việt Nam đã tìm ra cách đối phó bằng cách hiệu chỉnh lại tần số làm việc và tăng công suất tín hiệu trả lời của đạn.

Từ tháng 11/1967, bộ đội tên lửa Việt Nam bắt đầu áp dụng phương pháp bám mục tiêu không cần bật radar, phương pháp này đã đem lại những kết quả tốt. Các khẩu đội S-75M chuyển sang sử dụng các kính quang học chỉ huy dã chiến lắp trên các cabin "P" và được kết nối với các khối điều khiển tổ hợp tên lửa phòng không để để bám mục tiêu bằng mắt thường. Trong nhiều trường hợp, các khẩu đội thực hiện các động tác "giả phóng tên lửa" – tức bật sóng radar dẫn đường ở một chế độ thích hợp nhưng không phóng tên lửa. Phi công Mỹ thấy máy bay bị chiếu sóng, tưởng tên lửa sắp lao tới nên sẽ trút hết bom và thực hiện các động tác cơ động để tránh tên lửa, và vì thế tự đưa mình vào vùng sát thương của hỏa lực pháo phòng không.

Năm 1970, trong các đơn vị phòng không Việt Nam đã bắt đầu có radar P-12MP, đây là kiểu radar có thể tránh được tên lửa chống radar kiểu AGM-45 Shrike của Mỹ bằng cách làm việc ở chế độ "nhấp nháy" (liên tục bật -tắt). Để tăng cường khả năng chống nhiễu, radar và máy đo cao đã có như P-30 và PRV-10 cũng được cải tiến đáng kể.

Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc 1965-1968 và 1972, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 95 tiểu đoàn S-75 (mỗi tiểu đoàn có 1 hệ thống gồm 6 bệ phóng) và 7.658 quả tên lửa phòng không. Các đơn vị tên lửa S-75 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh 3.542 trận, trong đó có 588 trận đánh ban đêm; phóng đi 5.885 quả tên lửa (921 quả tên lửa khác bị loại bỏ do trục trặc hoặc hết niên hạn bảo quản); bắn rơi 788 máy bay của không lực Hoa Kỳ, 366 chiếc rơi tại chỗ; trong đó có 43 máy bay B-52; bình quân 7,1 quả đạn diệt được một máy bay.[9] Tới cuối chiến tranh, sau 10 năm tham chiến, lực lượng S-75 còn sẵn sàng chiến đấu của Việt Nam là 43 hệ thống (52 hệ thống khác đã bị phá hủy hoặc bị hỏng hóc chờ sửa chữa) và 852 quả tên lửa.

Cho đến nay, Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới sử dụng tên lửa S-75 để đối phó một cách có hiệu quả với máy bay ném bom chiến lược B-52 của Không lực Hoa Kỳ. Trong chiến dịch phòng thủ đường không 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, 15 tiểu đoàn tên lửa S-75 bảo vệ Hà NộiHải Phòng đã bắn rơi 27 máy bay B-52.[10]. Tuy nhiên, Hoa Kỳ chỉ thừa nhận mất 31 chiếc B-52 trong toàn bộ cuộc chiến, trong đó có 19 chiếc bị S-75 của đối phương bắn hạ (15 chiếc trong số đó bị bắn rơi trong Chiến dịch Linebacker II).[11] (có nhiều máy bay Mỹ bị trúng tên lửa hư hại nặng nhưng vẫn quay về được sân bay thì Mỹ không tính là chiếc máy bay đó bị bắn rơi, dù chiếc máy bay đó bị hỏng nặng tới mức không thể sử dụng được nữa)

Tại các điểm nóng khác

Trong chiến tranh tiêu hao từ tháng 3/1969 đến tháng 9/1971, S-75 của Ai Cập đã bắn hạ không ít hơn 03 máy bay tiêm kích F-4 Phantom và 01 chiếc Mister, 01 máy bay cường kích A-4, 01 máy bay vận tải và 01 sở chỉ huy trên không C-97 của Israel.

Tháng 6/1982, S-75 của Syria hạ 1 chiếc tiêm kích Kfir–C2 của Israel. Ngày 21 tháng 1 năm 1991, lần đầu tiên, tên lửa S-75 của Syria đã hạ một máy bay F-14 Tomcat của Không quân Israel tại vùng trời cao nguyên Golan.

S-75 của Iraq trong Chiến tranh Iran - Iraq năm 1980 -1988 đã bắn rơi ít nhất 04 chiếc F-4 Phantom và 01 chiếc F-5E của Iran. Trong Chiến dịch Bão táp sa mạc tháng 1-2/1991, S-75 của Iraq hạ 1 máy bay F-15E Strike Eagle của Không quân Mỹ, 01 máy bay F-14 của Hải quân Mỹ, 01 máy bay Panvia Tornado của Không quân Hoàng gia Anh.

Trong Cuộc xung đột Abkhazia - Gruzia (1992-1993), ngày 19 tháng 3 năm 1993, tên lửa S-75 của Gruzia cũng hạ được một chiếc tiêm kích Sukhoi Su-27 của Không quân Nga.

Trong Cuộc xung đột Yemen, ngày 14 tháng 2 năm 2020, 1 tên lửa Sayyad-1 (là bản sửa đổi từ hệ thống S-75 Dvina được sản xuất tại Iran) đã bắn hạ được một chiếc cường kích phản lực Panavia Tornado của Không quân Ả Rập Xê Út.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: S-75 Dvina http://sites.google.com/site/samsimulator1972/home http://www.militaryparitet.com/nomen/russia/rocket... http://www.pmulcahy.com/PDFs/heavy_weapons/sams.pd... http://www.youtube.com/watch?v=djZGkQAwVKk http://www.pakdef.info/pakmilitary/army/sam/sa2gui... http://www.globalsecurity.org/military/world/russi... http://mdb.cast.ru/mdb/3-2008/item3/article3/ http://pvo.guns.ru/s75/s75.htm http://old.raspletin.ru/produce/adms/s75/ http://baodatviet.vn/quoc-phong/ho-so/phong-khong-...